Thứ 5 - 17:51 04/02/2021
Báo cáo mới nhất của Rabobank, xem xét tình hình hiện tại của thị trường bột cá toàn cầu, cho thấy sau ba năm nguồn cung cá cơm Peru ở mức thấp, sản lượng thu hoạch đã được cải thiện trong năm nay. Nghiên cứu cho thấy điều này chủ yếu là do sự vắng mặt của El Nino, sự nóng lên của nhiệt độ bề mặt biển xảy ra vài năm một lần ở vùng Thái Bình Dương, xích đạo, Trung Đông và ảnh hưởng đến sự phân bố địa lý của các nguồn lợi thủy sản. Sự gia tăng sản lượng cá cơm đã làm tăng nguồn cung cấp bột cá và dầu cá, và xu hướng này sẽ tiếp tục trong ngắn hạn. Theo các tác giả của báo cáo, Gorjan Nikolik và Beyhan de Jong, ngành nuôi trồng thuỷ sản hiện tiêu thụ 70% lượng bột cá và 73% lượng dầu cá. Ngành chăn nuôi lợn chiếm 22% thị trường bột cá và ngành chăn nuôi gà chiếm thêm 6%, và tiêu dùng trực tiếp của con người chiếm 21% thị trường dầu cá. Số liệu của Tổ chức Nông Lương Liên Hợp Quốc (FAO) cho thấy 2/3 diện tích nuôi trồng thủy sản toàn cầu hiện nay dựa trên diện tích canh tác rộng lớn, sử dụng ít thức ăn nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc nuôi thâm canh các loài như cá hồi, tôm, cá da trơn, cá rô phi, cá mú, và cá tráp biển tạo ra nhu cầu lớn về bột cá và dầu cá. Nikolik và de Jong mong đợi các loài mới hơn bao gồm cá ngừ vây xanh, các loài thủy sản Amazon và cá giò sẽ dẫn dắt nhu cầu tương lai về bột cá và dầu cá, được dự đoán sẽ có tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 6% cho đến năm 2020. Nikolik và de Jong cho biết: “Xu hướng nuôi thủy sản thâm canh làm tăng nhu cầu thức ăn nuôi trồng thủy sản. Thêm vào đó, hầu hết các loài nuôi mới là động vật ăn thịt, điều này làm tăng hơn nữa nhu cầu bột cá và dầu cá”. Khai thác thủy sản toàn cầu đã bị suy giảm kể từ những năm 1980, và nguồn cung bột cá giảm xuống mức thấp là 4,2 triệu tấn vào năm 2016 từ mức cao khoảng 7 triệu tấn năm 2000. Các tác giả cho biết nguồn cung bột cá bị ảnh hưởng bởi các hình thức thu hoạch yếu kém và việc tăng cường sử dụng các loài cá biển nhỏ để tiêu thụ trực tiếp, cũng như các điều kiện khí hậu, đặc biệt là El Niño. Nguồn cung hiện dự kiến sẽ ổn định, nhưng trong dài hạn sản lượng cá biển dự kiến không tăng trưởng hơn nữa do giới hạn về hạn ngạch. Nhu cầu từ ngành thức ăn nuôi trồng thủy sản đã tăng đều trong suốt thời gian này, và mặc dù ngành thức ăn nuôi trồng thủy sản giảm lượng bột cá trong thức ăn từ khoảng 70% trong những năm 1990 xuống còn 25% hiện tại, vẫn có sự chênh lệch giữa nguồn cung dự kiến và nhu cầu trong tương lai. Các công ty thức ăn nuôi trồng thủy sản lớn đã thử nghiệm thức ăn nuôi trồng thủy sản không có thành phần bột cá, nhưng những người trong ngành này vẫn đồng quan điểm là loại thức ăn này hiện nay vẫn chưa phải là loại thức ăn tối ưu cho các loài thủy sản. Thị trường đã đáp ứng một phần nhu cầu protein thông qua việc tăng cường sử dụng các bộ phận của các loài thủy sản cho con người, nguồn protein từ thực vật và protein từ động vật chế biến và các sản phẩm phụ từ động vật như bột lông vũ và bột máu. Các quy định này là khác nhau giữa các quốc gia và các nguyên liệu thay thế này không được chấp nhận rộng rãi, điều này làm phức tạp thêm nguồn cung thị trường. Nhiều người đang làm việc trong ngành sản xuất bột cá đang nghiên cứu tìm ra các chất thay thế cho protein động vật. Các nguyên liệu tiềm năng nhất trong là trong các nguồn protein vi khuẩn và nguồn protein dựa trên côn trùng và dầu tảo. Con người đang rất nỗ lực và nhiều quỹ đang tìm kiếm các nguyên liệu thay thế và các công ty mới đang được khuyến khích tham gia vào lĩnh vực này thông qua các sáng kiến như Challenge F3 Fish-Free Feed (thức ăn nuôi trồng thủy sản không có thành phần bột cá). Các ví dụ về quy mô thương mại của các công ty đã sản xuất ra các protein mới bao gồm một liên doanh của Brazil giữa TerraVia và Bunge trong việc thành lập một nhà máy sản xuất dầu tảo quy mô lớn và FeedKind Aqua của Calysta, trong đó Cargill đã đầu tư vào việc thành lập nhà máy lên men khí lớn nhất thế giới tại Memphis, Tennessee. FeedKind Aqua của Calysta, UniProtein của Unibo và Mango Materials đều sử dụng khí mê-tan làm nguyên liệu để sản xuất ra vi khuẩn sinh học. KnipBio sử dụng ethanol và methanol, và Novo Nutrients của Oakbio sử dụng carbon dioxide và chất thải carbon. Một lợi thế lớn của các nguồn protein như vậy là sản xuất bền vững, sử dụng ít nước và không cần đất nông nghiệp, và không gây tác động đến chuỗi thức ăn của con người. Nikolik và de Jong nhận thấy rằng protein từ côn trùng có tiềm năng là một trong những nguồn cung cấp thức ăn thay thế bền vững nhất, nhưng cần đầu tư lớn hơn để đạt được quy mô thương mại. Nguồn protein bao gồm kiến lính đen, ấu trùng bọ, châu chấu và dế. Các rào cản pháp lý đã ngăn cản việc đưa protein từ côn trùng vào thức ăn nuôi trồng thủy sản, nhưng việc sử dụng loại nguyên liệu này trong thức ăn nuôi trồng thủy sản đã được Liên minh Châu Âu phê duyệt bắt đầu từ tháng 7 năm 2017. Nikolik và de Jong cho biết: “Xét về sự có mặt của một số dự án protein thay thế trên toàn cầu, chúng ta có thể ước tính có thêm khoảng 500.000 tấn protein thay thế chất lượng cao trong thức ăn nuôi trồng thủy sản vào năm 2022. Với sự đóng góp còn lại của ngành từ sản lượng đánh bắt tự nhiên, tổng sản lượng bột cá có thể đạt 5,4 triệu tấn vào năm 2022”. HNN (Theo seafoodsource)
Thứ 3 - 21:22 13/10/2020
Giá bột cá từ Peru đã tăng mạnh do nguồn cung khan hiếm. Sau khi Viện nghiên cứu hàng hải Pêru (Imarpe) đình chỉ đánh bắt cá cơm trong vụ 2, giá bột cá phẩm cấp cao nhất đã đạt 2.400 USD/ tấn (giá FOB tại Peru). Giữa tháng 10, giá mới dừng ở mức 2.100 USD/tấn. Trước khi hội nghị IFFO, 40.000 tấn đã được bán ra ở mức 2.100 USD/ tấn cho loại phẩm cấp cao nhất và 1.950 USD / tấn đối với loại tiêu chuẩn. Trong hội nghị, đã có giao dịch cho 10.000 tấn, với giá 2.300 USD/ tấn cho loại phẩm cấp cao nhất và 2.100 USD/ tấn đối với loại tiêu chuẩn. Cho đến tháng 5/2015, Peru sẽ không có nguồn bột cá. Do nguồn cung hạn chế nên có hồ sơ dự thầu tăng đến mức 2.400 USD/ tấn cho loại phẩm cấp cao nhất. Triển vọng ảm đạm Tại hội nghị IFFO, Hiệp hội Thủy sản Quốc gia Peru cho biết, sẽ khảo sát trữ lượng cá cơm trong nửa đầu tháng 12. Hai phương pháp được áp dụng là khảo sát trong 1 tháng và câu thử nghiệm trong 2 ngày. Về phương pháp câu thử nghiệm, thời điểm này khó có thể đạt được kết quả cao. Giá tăng cao khiến người mua bột cá Trung Quốc phải tìm nguồn thay thế. Đối với dầu cá, nguồn cung cấp là một vấn đề lớn. Trong vụ cá cơm đầu tiên của Peru trong năm nay, sản lượng chỉ đạt 1,7 triệu tấn trong khi TAC cho vụ này là 2,53 triệu tấn. Với lượng này, sẽ sản xuất được khoảng 380.000 tấn bột cá, thấp hơn so với các năm trước. Do hiện tượng El Nino, sản lượng đánh bắt vụ sau năm 2014 sẽ đạt khoảng 1,45 triệu tấn.
Thứ 3 - 21:22 13/10/2020
Vụ đánh bắt cá tại Peru sẽ bắt đầu vào cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12 tới nhưng theo khảo sát của Viện Hải dương học Peru (Imarpe), trữ lượng cá mùa đông này sẽ chỉ đạt khoảng 1,5 triệu tấn, từ hơn 10 triệu tấn vào mùa xuân. Khi đó, sản lượng bột cá trong năm 2014 có thể sẽ giảm tới hơn 40%, xuống còn 700.000 tấn. Trữ lượng cá thấp như vậy có thể là do những bất thường về khí hậu và điều kiện môi trường dọc bờ biển Peru đẩy cá ra xa hơn khỏi khu vực đánh bắt cá truyền thống. Trong gần một tháng trở lại đây, giá bột cá đã tăng một cách chóng mặt, giá bột cá Peru loại 65% protein đã tăng từ mức 1.680 đô la Mỹ/tấn (FOB) hồi giữa tháng 10, lên mức 2.060 đô la/tấn (FOB) vào đầu tháng 11. Nguồn cung bột cá đang cực kỳ khan hiếm, hiện tồn kho bột cá Peru chỉ còn khoảng 30.000 - 35.000 tấn và chủ yếu là bột cá phẩm cấp thấp. Việc giá bột cá Peru tăng cao đã ảnh hưởng rất lớn đến Trung Quốc bởi nước này là nhà nhập khẩu bột cá lớn nhất thế giới, chiếm tới 85% sản lượng bột cá xuất khẩu của Peru. Các nhà nhập khẩu nước này đang chuyển hướng sang tìm kiếm các nguồn cung khác để thay thế. Hiện ở châu Âu, Trung Quốc chủ yếu nhập hàng từ Đan Mạch do Iceland và Na Uy chưa có giấy phép xuất khẩu bột cá sang nước này. Tuy nhiên, nguồn cung bột cá Đan Mạch cũng không lớn nên Trung Quốc đang thiếu hụt nghiêm trọng bột cá. Gần đây, có tin cho biết các thương lái Việt Nam đã bắt đầu vận chuyển bột cá Việt Nam lên cửa khẩu phía Bắc để bán cho phía Trung Quốc, khiến cho giá bột cá nội địa đang rục rịch tăng. Bột cá 60% đạm và 65% đạm tại kho Kiên Giang đang được chào lần lượt ở mức 26.300 - 26.850 đồng/kg và 30.000 - 30.300 đồng/kg, tương ứng tăng800 - 1.350 đồng/kg và 300 đồng/kg so với tuần trước. Nhu cầu của Trung Quốc có thể sẽ khá lớn bởi giai đoạn cuối năm nhu cầu bột cá cho sản xuất thức ăn thủy sản của nước này tăng cao, trong khi vụ đánh bắt cá của Peru chưa bắt đầu. Do đó, việc giá bột cá của Peru tăng cao trong một tháng trở lại đây có thể khiến cho các nhà nhập khẩu Trung Quốc chuyển sang nhập khẩu từ các nước khác thay thế, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian cuối năm nay và đầu năm tới nguồn cung bột cá biển không có nhiều bởi rộ vụ khai thác là giai đoạn từ tháng 5 đến tháng 8. Trong bối cảnh nhu cầu mua của các nhà máy thức ăn thủy sản trong nước tăng, cộng với nhu cầu gom hàng để xuất đi Trung Quốc thì nhiều khả năng giá bột cá sẽ tăng khá mạnh trong thời gian tới. Việc giá bột cá nội địa tăng sẽ khiến cho các nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản nội địa phải chịu chi phí lớn hơn cho việc mua nguyên liệu, đẩy chi phí sản xuất của ngành thủy sản tăng lên. Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn
Thứ 3 - 21:22 13/10/2020
Từ bao đời nay, thiên nhiên ưu đãi cho ngư trường khai thác hải sản với nguồn lợi lớn. Bên cạnh các loại hải sản có giá trị cao vẫn có các loại cá nhỏ, cá tạp có giá trị thấp. Một cách để nâng cao giá trị của các loại cá này là chế biến các loai cá tạp thành bột cá – nguồn nguyên liệu chính trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Bột cá được chế biến từ thịt cá, cá tạp, cá nguyên con, đầu và xương cá hay các phụ phẩm khác từ quá trình chế biến cá. Hiện tại ở Việt Nam bột cá được sản xuất từ 2 nguồn nguyên liệu chính là nguyên liệu cá biển (cá nước mặn) và nguyên liệu cá tra (cá nước ngọt). Với các phụ phẩm cá và cá không đảm bảo quy cách, sau khi chế biến thu được bột cá dùng làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải sản. Trong thức ăn chăn nuôi thì bột cá được xem như là một trong những thành phần rất có giá trị. Nó có vị ngon và chất lượng rất tốt, cung cấp đủ prôtêin với các axít béo thiết yếu giúp vật nuôi phát triển tốt. Do đó việc phân tích thành phần các chất có trong bột cá sẽ giúp các nhà sản xuất biết rõ chất lượng của sản phẩm đơn vị mình làm ra cũng như giúp các nhà tiêu thụ an tâm về chất lượng của sản phẩm mình sử dụng. Tiêu chuẩn bột cá: Bảng 1: Các chỉ tiêu cảm quan của bột cá Chỉ Tiêu Hạng Hạng 1 Hạng 2 Hạng 3 1. Màu sắc Nâu nhạt Nâu đến nâu sẫm 2. Mùi Có mùi thơm đặc trưng của bột cá, không có mùi mốc, mùi hôi hoặc mùi khác lạ. 3. Trạng thái bền ngoài Tơi, không vón cục, không có sâu mọt, không mốc, không lẫn vật lạ. 4. Độ mịn Bột cá phải lọt sàng có đường kính mắt sàng 3,0mm, cho phép phần còn lại trên sàng không vượt quá 5%. Bột cá không được chứa Samonella, E. Coli, các độc tố nấm mốc và các chất độc hại. Dư lượng chất bảo quản và các chất nhiễm bẩn khác không được vượt quá mức tối đa cho phép theo qui định hiện hành. 2. Yêu cầu về các chỉ tiêu lý hoá Yêu cầu về các chỉ tiêu lý hoá của bột cá được qui định trong bảng 2. Bảng 2: Các chỉ tiêu lý hoá của bột cá Chỉ Tiêu Hạng Hạng 1 Hạng 2 Hạng 3 1. Độ ẩm, tính theo % khối lượng, không lớn hơn 10 10 10 2. Hàm lượng protein thô, tính theo % khối lượng, không nhỏ hơn. 60 50 40 3. Hàm lượng chất béo, tính theo % khối lượng, không lớn hơn 8 10 12 4. Hàm lượng muối natriclorua, tính theo % khối lượng, không lớn hơn 2 3 5 5. Hàm lượng tro không tan trong axit Clohyđric (cát sạn) tính theo % khối lượng, không lớn hơn 2 2,5 3 6. Mảnh vật rắn sắc nhọn. Không có Không có Không có 7. Hàm lượng nitơ bay hơi tổng số, tính theo mg/100g, không lớn hơn 150 250 350 ST internet